Trận Waterloo

Năm 1814, các nước châu Âu vì quá sợ hãi khả năng cầm quân của Napoleon đã liên kết lại để cùng lật đổ Hoàng đế Napoleon Bonaparte. Vị hoàng đế bất bại phải thoái vị và bị đày lên một hòn đảo nhỏ ở Địa Trung Hải.

Nhưng vị vua này không chịu ngồi yên, biết được dân chúng Pháp vẫn ủng hộ mình nên ông đã bí mật trốn khỏi nơi giam cầm quay trở về nước. Nhận được tin, vua Pháp bấy giờ đã cử quân đội đến để bắt giữ ông nhưng hết đoàn quân này đến đoàn quân khác được cử đi để bắt Napoleon cuối cùng lại quay về dưới quyền chỉ huy của hoàng đế cũ.

Quá lo sợ sức mạnh của Napoleon sẽ khiến cho toàn bộ quốc gia châu Âu mất chủ quyền, liên quân Anh, Áo, Nga và Phổ quyết định tấn công hoàng đế Pháp tại làng Waterloo.

Napoleon trì hoãn trận đánh đến trưa ngày 18/6 để chờ mặt đất khô ráo. Quân của liên minh do Wellington đứng đầu đã chống trả nhiều đợt tấn công dữ dội của quân Pháp cho đến chiều tối. Tưởng chừng quân đội do Napoleon chỉ huy đã đánh vỡ được phòng tuyến của liên minh thì quân Phổ kéo tới, xuyên thủng cánh phải đội quân Napoleon.

Lúc đó, quân của Wellington cũng phản công và khiến quân Pháp phải rút lui trong rối loạn. Lực lượng liên quân truy đuổi sau đó, tiến vào Pháp và phục hồi vương vị cho vua Louis XVIII.

Napoleon phải thoái vị và bị lưu đày tới đảo Saint Helena – nơi ông qua đời vào năm 1821. Nhiều người cho rằng, giả sử nếu ngày ấy, liên minh của Wellington thất bại trước Napoleon thì khó có một quốc gia nào có thể “đấu” lại được trước tài cầm quân của hoàng đế nước Pháp.

Trận Alamo (1836)

Trận Alamo  nó được coi là một huyền thoại của nước Mỹ và trở thành đối tượng cho rất nhiều sách, phim Hollywood và phim tài liệu.

Trận đánh diễn ra khi 260 người Texas cầm cự chống lại đội quân 2,400 người của Antonio Lopez de Santa Anna (vị tướng người Mexico này được coi là “Napoleon của phía Tây”). Tất nhiên, Santa Anna đã chiến thắng. Tuy nhiên chỉ vài tuần sau đó, ông phải đầu hàng một đội quân Texas khác tại San Jacinto (những người này nổi dậy vì quá tức giận trước kết quả của trận Alamo). Vùng Texas giành độc lập kể từ đó.

Trận Lepanto
 (Tiếng Hy Lạp: Ναύπακτος, Naupaktos, pron. Náfpaktos; colloquial tiếng Hy Lạp: Έπαχτος, Épahtos; tiếng Thổ Nhĩ Kỳ: İnebahtı) là trận hải chiến diễn ra ngày 7 tháng 10 năm 1571 khi hạm đội Liên minh thần thánh (1571) do Giáo hoàng Piô V (1566 – 1572) thành lập, một liên minh bao gồm nước Cộng hòa Venezia, vương quốc Tây Ban Nha (lúc đó bao gồm cả Napoli, Sicilia và Sardinia), Quốc gia Giáo hoàng, nước Cộng hòa Genova, Công quốc Savoie, Dòng Chiến sĩ Toàn quyền Malta‎ cùng một số đồng minh khác đánh hạm đội Đế chế Ottoman đại bại.
Trận kịch chiến kéo dài 5 giờ đồng hồ ở phần phía bắc của Vịnh Patras, nằm ở phía tây Hy Lạp, nơi lực lượng Ottoman, đang thực hiện cuộc hải hành từ căn cứ hải quân tại Lepanto giáp mặt hạm đội của Liên minh Thần thánh, khởi hành từ Messina.[2] Chiến thắng này mang lại quyền kiểm soát tạm thời biển Địa Trung Hải cho Liên minh, bảo vệ Roma khỏi nguy cơ xâm lược, đồng thời ngăn cản bước tiến của Đế chế Ottoman vào sâu nội địa châu Âu. Trận hải chiến này cũng là trận đánh lớn cuối cùng giữa các chiến thuyền chèo dùng sức người, đồng thời cũng là trận chiến quyết định quan trọng nhất, vì “sau trận Lepanto quả cân xoay chiều, vận may chuyển từ Đông sang Tây, kéo dài cho tới tận ngày nay”, và cũng vì “đây là ‘bước ngoặt quyết định’ trong cuộc chiến kéo dài giữa Trung Đông và châu Âu, cho tới giờ vẫn còn chưa ngã ngũ”
Trận chiến này là một trận thất bại thảm hại cho đế quốc Ottoman, nhất là vì họ chưa từng thua một trận hải chiến lớn nào kể từ thế kỷ 15. Với một nửa thế giới Ki-tô giáo, trận chiến này mang lại hy vọng về sự suy tàn của “bọn Thổ”, những người mà họ coi là “kẻ thù vĩnh viễn của người Ki-tô giáo”. Sự thực là, ngoại trừ 30 chiến thuyền, Đế quốc Ottoman mất toàn bộ số chiến thuyền của mình và 30 ngàn binh lính, một số sử gia phương Tây đánh giá trận này là trận chiến hải chiến quan trọng nhất toàn cầu, kể từ trận Actium năm 31 trước Công nguyên.
Thắng lợi ở Lepanto được xem là chiến thắng lớn nhất của người Ki-tô giáo trước Hồi giáo, kể từ sau cuộc xâm chiếm xứ Granada vào năm 1492.[8] Mặc dù giành được chiến thắng oanh liệt, nhưng nội bộ Liên minh quá mất đoàn kết để có thể phát huy chiến quả. Kế hoạch đánh chiếm eo biển Dardanelles như một bước khởi đầu cuộc tái chinh phục Constantinopolis cho thế giới Ki-tô giáo bị bỏ bê vì những cuộc cãi vã trong hàng ngũ đồng minh. Với một nỗ lực phi thường và nguồn nhân lực dồi dào[8], Đế chế Ottoman tái xây dựng hải quân của mình, mô phỏng theo mô hình thuyền chiến galeass của người Venezia.
Tới năm 1572, họ đã đóng được hơn 150 galley và 8 galleass, tức đã thêm 8 chiến hạm loại lớn nhất cho tới lúc đó trên biển.[9] Trong vòng 6 tháng, hạm đội mới gồm 250 thuyền (kể cả 8 galleass) đã cho phép hải quân Ottoman tái lập thế thượng phong trên phần phía đông Địa Trung Hải.[10] Ngày 7 tháng 3 năm 1573, người Venezia ký hiệp ước chấp nhận việc quân Thổ chiếm hữu đảo Síp, vốn đã rơi vào tay quân Thổ dưới quyền Piyale Pasha từ ngày 3 tháng 8 năm 1571, chỉ hai tháng trước trận Lepanto, và sẽ còn nằm dưới ách thống trị của Thổ trong vòng 3 thế kỷ tiếp đó. Cũng trong mùa hè năm đó, hạm đội Ottoman tàn phá các vùng đất ven biển Sicilia và phía nam nước Ý. Khi tiếp sứ Venezia là Barbaro, Đại Vizia Thổ là Sokollu Mehmet Pasha (1565-1579) đã có câu nói nổi tiếng: “Khi giành được đảo Síp, ta chặt đi một cánh tay của các ngươi; khi đánh bại được hạm đội của ta, các người chỉ xén đi được bộ râu của ta mà thôi. Khi cánh tay bị chặt đi, nó không thể mọc lại được, một bộ râu bị xén sẽ mọc lại còn tốt hơn trước.”
Dù mạnh miệng tuyên bố, nhưng trên thực tế, tổn thất của phía Ottoman hết sức nghiêm trọng có tầm vóc chiến lược. Họ có thể xây thêm thuyền chiến dễ dàng,[6] nhưng khó lòng kiếm được người điều khiển chúng, vì bao nhiêu thủy thủ và phu chèo thuyền giàu kinh nghiệm đã bị mất đi sau trận đánh này.
Đặc biệt nghiêm trọng là sự tổn thất đại bộ phận số cung thủ sử dụng cung tổng hợp, là vũ khí ưa chuộng của người Thổ, vốn được đánh giá cao hơn cả hỏa khí và cây cột nhọn ở mũi thuyền dùng để đâm tàu đối phương. Sử gia John Keegan đánh giá là sự mất mát cả một lớp tinh binh này khó lấy gì bù đắp được trong cả một thế hệ tiếp đó, và trên thực tế, tương ứng với sự “chết đi của một huyền thoại sống” với người Ottoman.[6] Cuối cùng, người ta phải sử dụng một số lớn tù phạm để thế chỗ cho những nô lệ Ki-tô giáo được giải thoát sau trận đánh. Song, nhà quý tộc Áo là Khevenhüller đã tỏ thái độ thất vọng qua nhật ký của ông, bởi vì chiến thắng Lepanto không thể đem lại một tấc đất nào cho Ki-tô giáo.[8]
Năm 1574 những người Ottoman hạ được thành phố Tunis có vị trí chiến lược từ triều đại Hafsid, được Tây Ban Nha ủng hộ, vốn đã được tái lập khi quân của Don Juan tái chiếm từ tay quân Ottoman năm trước. Lợi dụng cuộc liên minh lâu dài với người Pháp, hải quân Thổ tái hoạt động trên vùng biển phía tây Địa Trung Hải. Năm, họ đánh chiếm thành phố Fez, thuộc Maroc, hoàn tất quá trình chinh phục Maroc mà người Ottoman đã bắt đầu từ thời Suleiman Đại đế (1520-1566).
Việc kiểm soát thành phố này cho phép thiết lập quyền bá chủ của đế chế Ottoman trên toàn bộ miền duyên hải Địa Trung Hải, từ eo biển Gibraltar cho tới Hy Lạp (chỉ ngoại trừ thành phố thương mại Oran do người Tây Ban Nha kiểm soát, và các khu dân cư ở Melilla và Ceuta). Tuy vậy, việc mất đi quá nhiều thủy thủ giày dặn kinh nghiệm tại Lepanto đã làm hao mòn sức chiến đấu của hải quân Ottoman, thể hiện qua việc họ tìm cách giảm thiểu các cuộc chạm trán với hải quân các quốc gia Ki-tô giáo trong những năm kế tiếp. Sử gia Paul K. Davis cho biết:
“Thất bại của quân Thổ đã chặn đứng sự bành trướng của họ trên Địa Trung Hải, và như vậy duy trì ưu thế của phương tây ở đây, đồng thời tăng thêm niềm tin là họ có thể đánh bại quân Thổ, vốn trước đây là bất khả chiến bại.

Trận Aleppo

Aleppo là thành phố lớn nhất Syria với dân số gần 2,5 triệu người. Tình hình giao tranh dữ dội giữa quân chính phủ và lực lượng nổi dậy đẩy không ít người dân vào cảnh khốn khổ. Thành phố với bề dày lịch sử nhất nhì khu vực Arab đang bị cuốn vào những cuộc giao tranh khốc liệt. Người dân Aleppo đang phải đối mặt với tình trạng thiếu lương thực, nhiên liệu, nước sạch và khí đốt.

Chuẩn bị cho trận chiến Aleppo quyết định, động thái mới đây nhất, Nga đã đẩy nhanh kế hoạch cung cấp vũ khí tối tân cho người đồng minh Iran. Người phát ngôn Bộ Ngoại giao Iran Hossein Jaber Ansari ngày 15/2 cho biết, Nga đang chuyển hệ thống tên lửa phòng không S-300 cho Iran.

Moscow cũng đã điều khinh hạm tên lửa Zelenyi Dol (Thung lũng xanh) dự án 21631 (lớp Buyan-M) mang tên lửa hành trình Kalibr khởi hành từ Sevastopol – nơi đặt trụ sở Bộ tư lệnh Hạm đội Biển Đen, tới bờ biển Syria tham gia đánh tổ chức khủng bố Nhà nước Hồi giáo IS.
Cùng với khinh hạm tên lửa Serpukhov, chiến hạm này được biên chế vào cơ cấu trang bị của Hạm đội Biển Đen cách đây vài tháng và ngay lập tức nó đã có cơ hội sang yểm trợ cho quân đội Nga và Syria.
Còn người đồng minh của Nga, trong nhiều ngày qua Lữ đoàn 555 của Sư đoàn Cơ giới số 4 thuộc quân đội Syria đã tiếp tục chiếm được ưu thế tại khu vực Đông Bắc nước này và đang tiến vào Sân bay Quân sự Tabaqa – địa điểm mang tính chiến lược tại Raqqa.
Bashar al-Assad còn được sự hỗ trợ trên mặt đất của Iran và Hezbollah từ Lebanon, kết hợp với các cuộc không kích chi viện của Nga, nay đã không còn hào hứng với thương lượng lệnh ngừng bắn. Ông tuyên bố tuần này rằng, mục tiêu của chính phủ Syria là giải phóng toàn bộ lãnh thổ, dù có phải mất thời gian.
Mỹ cũng đã có hành động cụ thể vào khoảng giữa tháng 1, Sư đoàn Không vận số 101 của Mỹ đã được điều đến Iraq để cố vấn và hỗ trợ lực lượng quân đội Iraq đánh chiếm lại Mosul.
Bộ trưởng Quốc phòng Mỹ Ashton Carter cũng đã gặp Bộ trưởng Quốc phòng Các tiểu vương quốc Ả rập Thống nhất (UAE) tại Brussels hôm 12/2. Sau cuộc gặp, ông Carter nói rằng, UAE đã đồng ý triển khai lực lượng đặc nhiệm ở Syria để hỗ trợ các chiến binh người Arập Sunni đánh chiếm Raqqa.
Thông tin trên là đáng chú ý, trong bối cảnh Ả Rập Saudi gần đây tuyên bố sẵn sàng đưa lực lượng bộ binh vào Syria, với sự hậu thuẫn của Mỹ.
Bên nào giành chiếm được Aleppo đồng nghĩa với việc chiến thắng IS được thế giới vinh danh, tất nhiên sẽ có phần thưởng cả về địa chính trị cũng như quyết định giá vàng đen.

Trận chiến Ho

Hạm đội Liên minh Đánh Lên gồm họ dầu khí và 6 các cổ phiếu được bán khống mạnh thời gian qua, được chỉ huy bởi thủ lĩnh đầy năng lực VNM . Tất cả thành viên Liên minh đều coi hạm đội Đánh Xuống là mối hiểm họa nghiêm trọng cho giá trị tài sản ròng của cả tập thể cũng như cá nhân liên quan.
Hạm đội Liên minh Đánh Xuống bao gồm họ bất động sản, thêm vào đó, liên minh có thêm hàng  ngàn quân đánh xuống  tinh nhuệ ôm kho sọc, hàng ngàn quân đánh thuê, cộng với những cộng tác viên tham gia đoàn quân pha loãng, in giấy lấy tiền.
Một lợi thế quan trọng, có lẽ mang tính quyết định cho hạm đội Liên minh đánh xuống là họ có ưu thế vượt trội về số lượng cổ phiếu. Ngưỡng 559 được coi  có ý nghĩa quan trọng chiến lược, không phải chỉ vì những lý do thành tích , mà vì chiến thắng này báo hiệu sự kết thúc của quyền bá chủ của đội đánh xuống trên sòng Ho trong suốt một chu kỳ thị trường đi xuống.