Trái phiếu là một chứng khoán nợ, người nắm giữ trái phiếu là chủ nợ của đơn vị phát hành. Đơn vị phát hành trái phiếu là các công ty thuộc các thành phần kinh tế, và Chính phủ, chính quyền địa phương. Nhìn chung người mua trái phiếu, hàng năm hoặc hàng quý họ sẽ được trả một số tiền lời theo mức lãi suất đã định, và khi đáo hạn họ sẽ nhận được tiền vốn gốc (mệnh giá trái phiếu).

     Khác với các cố đông, là người được nhận số cổ tức một cách không xác định, hoàn toàn phụ thuộc vào kết quá kinh doanh của công ty, thậm chí có thể mất luôn cả vốn cổ phần, nếu công ty làm ăn thua lỗ phá sản, thì người nắm giữ trái phiếu (trái chủ) được hưởng số tiền lãi đã được xác định. Nhưng sự lạm phát, sự thay đổi lái suất tín dụng (tăng) cũng có thể làm giảm giá trái phiếu trên thị trường.

     Xét về hình thức phát hành trái phiếu có hai loại: trái phiếu vô danh và trái phiếu ký danh.

     Trái phiếu vô danh là loại không ghi tên sở hữu chủ trên tờ trái phiếu cũng như trong sổ công ty phát hành. Trái phiếu ký danh có ghi tên. Mỗi tờ trái phiếu đều có cuống phiếu đó là các ô trả lãi, sở hữu chủ cắt một ô trả lãi gởi tiền đến ngân hàng hoặc một công ty chứng khoán được ủy thác để nhận tiền lãi.

Trái chủ có thể giữ trái phiếu cho tới khi đáo hạn để nhận lại mệnh giá, hoặc có thể bán nó trên TTCK (thứ cấp) trước khi đáo hạn. Trong trường hợp này trái chủ sẽ nhận được giá trị theo giá thị trường; có thể cao hơn, bằng, hoặc thấp hơn mệnh giá.

     Giá trái phiếu là giá mua bán. Giá trái phiếu dược còng bố là tỷ lệ phần trăm của mệnh giá.

     Ví dụ, khi công bố trái phiếu là 100, có nghĩa là giá mua – bán trái phiếu là 100% của mệnh giá (nếu mệnh giá trái phiếu là 1000 thì giá trái phiếu sê là 1000đ, nếu mệnh giá trái phiếu là 100 thì giá trái phiếu. Giá 90 có nghĩa là giá trái phiếu là 90% của mệnh giá. Giả sử mệnh giá trái phiếu là l000đ thìgiá muabán trái phiếu sẽ là 900đ. Giá trái phiếu nhỏ hơn mệnh giá được gọi là giá chiết khấu. Giá 110, nghĩa là 110% của mệnh giá. Nếu mệnh giá là l000đ thì giá mua bán sẽ là l.l00đ. Trong trường hợp này gọi là giá cao.

     Mỗi lần giá tăng hoặc giảm 1% dược hiểu là 1 điểm. Nếu giá trái phiếu thay đổi từ 90 đến 91 tức là tăng 1 điểm.

     Như vậy khi lãi suất thị trường tăng thì giá trái phiếu sẽ giảm, và ngược lại. Tuy nhiên, công thức tính toán giá mua bán này chỉlà tương đối, vì trong thực tế không phải khi lãi suất thị trường tăng (hoặc giảm) bao nhiêu phần trăm thì giá trái phiếu cũng sẽ giảm (hoặc tăng) tương ứng. Ở ví dụ trên lãi suất thị trường tâng 2% thì giá trái phiếu có mệnh giá 100 sẽ xoay quanh con số 80. Nghĩa là có thể cao hơn hoặc thấp hơn 80.

Nếu cổ phiếu là giấy xác nhận quyền sở hữu của cổ đông của một công ty muốn gọi vốn thì trái phiếu là một loại chứng khoán quy định nghĩa vụ của người phát hành một khoản tiền xác định, thường là trong những khoảng thời gian cụ thể, và phải hoàn trả khi nó đáo hạn

Khái niệm cơ bản về trái phiếu

1. Khái niệm 

Trái phiếu là một loại chứng khoán quy định nghĩa vụ của người phát hành (người vay tiền) phải trả cho người nắm giữ chứng khoán (người cho vay) một khoản tiền xác định, thường là trong những khoảng thời gian cụ thể, và phải hoàn trả khoản cho vay ban đầu khi nó đáo hạn.

2. Đặc điểm

a. Một trái phiếu thông thường có ba đặc trưng chính:

+ Mệnh giá.

+ Lãi suất định kỳ (coupon).

+ Thời hạn.

b. Trái phiếu thể hiện quan hệ chủ nợ – con nợ giữa người phát hành và người đầu tư 

Phát hành trái phiếu là đi vay vốn. Mua trái phiếu là cho người phát hành vay vốn và như vậy, trái chủ là chủ nợ của người phát hành. Là chủ nợ, người nắm giữ trái phiếu (trái chủ) có quyền đòi các khoản thanh toán theo cam kết về khối lượng và thời hạn, song không có quyền tham gia vào những vấn đề của bên phát hành.

c. Lãi suất của các trái phiếu rất khác nhau, được quy định bởi các yếu tố:

– Cung cầu vốn trên thị trường tín dụng:  Lượng cung cầu vốn đó lại tuỳ thuộc vào chu kỳ kinh tế, động thái chính sách của ngân hàng trung ương, mức độ thâm hụt ngân sách của chính phủ và phương thức tài trợ thâm hụt đó.

– Mức rủi ro của mỗi nhà phát hành và của từng đợt phát hành:  Cấu trúc rủi ro của lãi suất sẽ quy định lãi suất của mỗi trái phiếu. Rủi ro càng lớn, lãi suất càng cao.

– Thời gian đáo hạn của trái phiếu: Nếu các trái phiếu có mức rủi ro như nhau, nhìn chung thời gian đáo hạn càng dài thì lãi suất càng cao.

3. Phân loại trái phiếu

a.  Căn cứ vào việc có ghi danh hay không:

– Trái phiếu vô danh: là trái phiếu không mang tên trái chủ, cả trên chứng chỉ cũng như trên sổ sách của người phát hành. Những phiếu trả lãi đính theo tờ chứng chỉ, và khi đến hạn trả lãi, người giữ trái phiếu chỉ việc xé ra và mang tới ngân hàng nhận lãi. Khi trái phiếu đáo hạn, người nắm giữ nó mang chứng chỉ tới ngân hàng để nhận lại khoản cho vay.

– Trái phiếu ghi danh: là loại trái phiếu có ghi tên và địa chỉ của trái chủ, trên chứng chỉ và trên sổ của người phát hành. Hình thức ghi danh có thể chỉ thực hiện cho phần vốn gốc, cũng có thể là ghi danh toàn bộ, cả gốc lẫn lãi. Dạng ghi danh toàn bộ mà đang ngày càng phổ biến là hình thức ghi sổ. Trái phiếu ghi sổ hoàn toàn không có dạng vật chất, quyền sở hữu được xác nhận bằng việc lưu giữ tên và địa chỉ của chủ sở hữu trên máy tính.

b. Căn cứ vào đối tượng phát hành trái phiếu đó

Trái phiếu chính phủ: là những trái phiếu do chính phủ phát hành nhằm mục đích bù đắp thâm hụt ngân sách, tài trợ cho các công trình công ích, hoặc làm công cụ điều tiết tiền tệ.

Trái phiếu chính phủ là loại chứng khoán không có rủi ro thanh toán và cũng là loại trái phiếu có tính thanh khoản cao. Do đặc điểm đó, lãi suất của trái phiếu chính phủ được xem là lãi suất chuẩn để làm căn cứ ấn định lãi suất của các công cụ nợ khác có cùng kỳ hạn.

Trái phiếu công trình: là loại trái phiếu được phát hành để huy động vốn cho những mục đích cụ thể, thường là để xây dung những công trình cơ sở hạ tầng hay công trình phúc lợi công cộng. Trái phiếu này có thể do chính phủ trung ương hoặc chính quyền địa phương phát hành.

Trái phiếu công ty: là các trái phiếu do các công ty phát hành để vay vốn dài hạn. Trái phiếu công ty có đặc điểm chung sau:

Trái chủ được trả lãi định kỳ và trả gốc khi đáo hạn, song không được tham dự vào các quyết định của công ty. Nhưng cũng có loại trái phiếu không được trả lãi định kỳ, người mua được mua dưới mệnh giá và khi đáo hạn được nhận lại mệnh giá.

Khi công ty giải thể hoặc thanh lý, trái phiếu được ưu tiên thanh toán trước các cổ phiếu.

Có những điều kiện cụ thể kèm theo, hoặc nhiều hình thức đảm bảo cho khoản vay.

Trái phiếu công ty bao gồm những loại sau:

+ Trái phiếu có đảm bảo: là trái phiếu được đảm bảo bằng những tài sản thế chấp cụ thể, thường là bất động sản và các thiết bị. Người nắm giữ trái phiếu này được bảo vệ ở một mức độ cao trong trường hợp công ty phá sản, vì họ có quyền đòi nợ đối với một tài sản cụ thể.

+ Trái phiếu không bảo đảm: Trái phiếu tín chấp không được đảm bảo bằng tài sản mà được đảm bảo bằng tín chấp của công ty. Nếu công ty bị phá sản, những trái chủ của trái phiếu này được giải quyết quyền lợi sau các trái chủ có bảo đảm, nhưng trước cổ động.

Các trái phiếu tín chấp có thể chuyển đổi cho phép trái chủ được quyền chuyển trái phiếu thành cổ phiếu thường của công ty phát hành. Tuỳ theo quy định, việc chuyển đổi có thể được tiến hành vào bất cứ thời điểm nào, hoặc chỉ vào những thời điểm cụ thể xác định.

Ngoài những đặc điểm trên, mỗi đợt trái phiếu được phát hành có thể được gắn kèm theo những đặc tính riêng khác nữa nhằm đáp ứng nhu cầu cụ thể của một bên nào đó. Cụ thể là:

– Trái phiếu có thể mua lại : cho phép người phát hành mua lại chứng khoán trước khi đáo hạn khi thấy cần thiết. Đặc tính này có lợi cho người phát hành song lại bất lợi cho người đầu tư, nên loại trái phiếu này có thể có lãi suất cao hơn so với những trái phiếu khác có cùng thời hạn.

– Trái phiếu có thể bán lại : cho phép người nắm giữ trái phiếu được quyền bán lại trái phiếu cho bên phát hành trước khi trái phiếu đáo hạn. Quyền chủ động trong trường hợp này thuộc về nhà đầu tư, do đó lãi suất của trái phiếu này có thể thấp hơn so với những trái phiếu khác có cùng thời hạn.

–  Trái phiếu có thể chuyển đổi : cho phép người nắm giữ nó có thể chuyển đổi trái phiếu thành cổ phiếu thường, tức là thay đổi tư cách từ người chủ nợ trở thành người chủ sở hữu của công ty. Loại trái phiếu này thuộc vào nhóm hàng hoá chứng khoán có thể chuyển đổi được đề cập tới dưới đây.

4. Lợi ích của đầu tư qua trái phiếu

– Dù làm ăn thua lỗ, công ty vẫn phải trả đủ tiền lãi, không cắt giảm hoặc bỏ như cổ phiếu. Nếu công ty ngừng hoạt động, thanh lý tài sản, trái chủ được trả tiền trước người có cổ phần ưu đãi và cổ phần thông thường.

– Nhưng nếu công ty có lợi nhuận cao, công ty có thể chia thêm cổ tức cho người có cổ phần, thì trái chủ vẫn chỉ được hưởng ở mức đã định.

– Trái phiếu có loại được miễn thuế thu nhập (trái phiếu Chính phủ, trái phiếu chính quyền địa phương). Đối với những người có thu nhập cao, mua trái phiếu trên vẫn có lợi.

– Trái phiếu trên thị trường thứ cấp có giá lên xuống đối nghịch với lãi suất thị trường. Nếu biết tính toán phân tích để thực hiện mua bán thì vẫn có lợi.

5. Bất lợi khi đầu tư trái phiếu

– Khi nhận được tiền lãi phải lo đầu tư số tiền đó vì rất ít công ty có chương trình tái đầu tư tiền lãi trái phiếu. Trong khi đó, nhiều công ty có chương trình tái đầu tư cổ tức. Cổ đông có thể mua thêm cổ phần được miễn sở phí, và có khi còn được mua cổ phần với giá rẻ hơn giá thị trường.

– Giá trái phiếu công ty cũng biến động khá mạnh trên thị trường: khi lãi suất thị trường lên cao hơn lãi suất trái phiếu thì giá trái phiếu sẽ hạ. Khi cơ quan đánh giá xếp loại doanh nghiệp, đánh giá công ty phát hành từ loại AAA(3A) xuống AA(2A) hoặc xuống BBB(3B) thì giá trái phiếu cũng sẽ bị hạ.

Hoặc khi có sự mất mát thị trường, vỡ nợ… thì giá trái phiếu cũng sẽ bị hạ.Và giá trái phiếu cũng sẽ giảm đi khi có ít người mua.

6. Khi đầu tư trái phiếu cần chú ý gì?

Trước khi mua trái phiếu cần tìm hiểu hai điều: chiều hướng lên xuống của lãi suất và uy tín của công ty phát hành.

Nên mua trái phiếu lúc lãi suất đang ở thời điểm cao nhất và đang trên đà giảm dần. Và nên mua trái phiếu dài hạn để có thể được hưởng lãi suất cao trong một thời gian dài. Ngược lại, lúc lãi suất đang ở mức thấp nhất và bắt đầu tăng, nên bán trái phiếu dài hạn đi để mua vào trái phiếu trung hạn.


Nguồn tin: giacophieu.com